Hôm nay đã 30/11, chúng ta vốn dân Toán G, LP sưu tầm bài này để các bạn xem thử dân văn vì ngứa nghề Toán đã phải "Dò tìm cho đến ngọn nguồn, mạch sông" - Kiều, Nguyễn Du - như thế nào để tính tiền qua bài ca dao cổ. Bài viết dưới đây của tác giả PHAN
VĂN CHO Khóa 4 ĐH Sư phạm Huế.
"Đi chợ tính tiền" là một bài ca dao lục bát. Bài đã được in làm Bài Học Thuộc Lòng cho học
sinh lớp "sơ đẳng" (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm
1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ
ràng việc chi tiêu với chồng.
Ngày xưa khi học bài này
thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, khéo vén của
người phụ nữ xưa... sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài
toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958, chưa được
vào trường công lập, người viết học với Ông giáo... ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không
biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi
thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.
Đã
hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng... một ngày
mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ
vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy. Bèn tìm giấy giải thử.
Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn
nạn: "Một quan tiền tốt mang đi". Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng
tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ
không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc
sĩ Văn Phụng:
Một quan là sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho
chồng đi thi. (Thơ của Nguyễn Bính).
Vận dụng cả 4 phép tính cộng
trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống... mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một
quan tiền!
Lại phải đi tìm trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân
Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh
sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên
hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây
chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại
sau đều theo.
Đơn vị để tính tiền xưa gồm
có : quan, tiền , đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu
đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời
đại như sau:
1/ Năm 1225, vua Trần
Thái Tông định phép dùng tiền: 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 70 đồng.
2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ
cho đúc tiền Thuận Thiên: 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 50 đồng.
3/ Năm 1439, vua Lê Thái
Tông quy định: 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1
quan= 10 tiền = 600 đồng.
Từ đó các triều đại về
sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn
năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.
Năm 1905, chính quyền bảo
hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng
hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá
trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo,
Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.
Trong những đời vua sau của
nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại
Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng
máy dập nhập từ nước Pháp.
Đến đây chắc chắn là bài
toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các
phép tính đã giải.
ĐI CHỢ TÍNH TIỀN
Một quan tiền tốt mang đi, = 600
Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà, 3x60 = 180
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu. 60+30+3 = 93
Trở lại mua sáu đồng cau, =
6
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng. (1,5x60)+10 = 100
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi. 60+30+6 = 96
Ba mươi đồng rượu chàng ơi, = 30
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng. 30+20 =
50
Hai chén nước mắm rõ ràng,
Hai bảy mười bốn, kẻo chàng hồ nghi. 2x7 =
14
Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè, = 21
Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan. = 10
CỘNG =
600
Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải
nghĩa, ghi nguyên văn như sau:
"GIẢI NGHĨA:
- Tiền tốt = tiền tiêu được.
- Vàng = đồ làm bằng giấy
cúng rồi đốt đi.
-
Hồ nghi = ngờ vực, không biết
rõ".
Những giải nghĩa này chỉ
để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu,dễ nhớ. Đi chợ tất phải
đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên.
Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách
giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi,
không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.
Có một giai thoại trong văn học về Bà
Chúa thơ Nôm.Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ
5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho
mượn tiền:
Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách
người quân tử hẹn sai ra.
Bao
giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ
hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ họa lại:
Rằng gián thì năm, quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ
gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã "có công tất ... chồng
không phụ", kết quả đã tìm được:
Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh
Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau:
1quan quý = 600đồng. 1 quan gián chỉ bằng
360 đồng.
Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ
nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu
nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:
Quan quý
: 3x600 = 1800
đồng
1800:360 = 5 quan gián
Giá trị của các loại tiền xưa như thế
nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng:
- Quan Nhất
Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo
quần.
- Quan Chánh
ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân
Phục.
- Lính, thơ
lại, phục dịch... lương mỗi tháng 1quan tiền, 1 phương gạo.
Đồng
quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ... quan ra để mua phẩm hàm ,chức
tước... để được làm quan! Chẳng trách
người phụ nữ "thời xưa" (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè)
quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về
làng... cùng nhau trải trọn trong một đêm trăng!
Qua những số liệu vừa tìm
được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm
nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT"mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý,
phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được,người phụ nữ trong
một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc
phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!
Thật thú vị, để giải bài
toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài
thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có Internet
chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến
kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến... đã thấy chồn chân chẳng muốn
trèo !
PVC
(Pleiku 22-8-2011)